1. Cơ quan thu phí là Viện Pháp y Quốc gia - Bộ Y tế; Trung tâm Pháp y, Tổ chức giám định Pháp y trực thuộc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Phòng giám định Pháp y thuộc Bệnh viện đa khoa cấp tỉnh; Viện Pháp y quân đội, Bệnh viện cấp quân khu thuộc Bộ Quốc phòng; Trung tâm pháp y thuộc Viện
Ngày 19/10, Cơ quan CSĐT Bộ Công an cho biết, vừa bắt tạm giam ông Đinh Quốc Thái – cựu Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai và ông Trần Đình Thành – cựu Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai để điều tra về tội nhận hối lộ. Trước đó, chiều 18/10, Cục Cảnh sát điều … Đọc tiếp "Bắt tạm giam cựu Bí thư Tỉnh ủy và
Giám định thương tích - Trung tâm Pháp Y Cần Thơ - Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam là chuyên trang cung cấp cơ sở dữ liệu về luật việt nam, tra cứu văn bản và thảo luận pháp luật với mục tiêu: Làm cho pháp luật dễ hiểu hơn
Các ngân hàng thương mại đã chủ động, tích cực hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng dịch COVID-19 bằng nhiều biện pháp. Đến cuối tháng 7/2022, cơ cấu lại thời hạn, giữ nguyên nhóm nợ 722 nghìn tỷ đồng với 1,1 triệu khách hàng; miễn giảm lãi, giữ nguyên
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 26 Luật Giám định tư pháp 2012, nội dung đơn yêu cầu giám định gồm: Tên tổ chức hoặc họ tên của người yêu cầu giám định; Nội dung yêu cầu giám định; Tên và đặc điểm của đối tượng giám định; Tài liệu, vật chứng có liên quan; hoặc
. TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI BẢN ÁN 86/2019/HSPT NGÀY 25/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH Ngày 25 tháng 01 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 814/2018/TL. HSPT ngày 12 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Trần Văn Ph do có kháng cáo của bị cáo, bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 39/2018/HS-ST ngày 15/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. - Bị cáo có kháng cáo Trần Văn Ph, sinh ngày 27/12/1995 tại Thành phố Hà Nội; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở Thôn Lưu Thượng, xã Phú Túc, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội; Giới tính nam; Nghề nghiệp lao động tự do; Trình độ văn hóa 12/12; Dân tộc Kinh; Tôn giáo không; Quốc tịch Việt Nam; Con ông Trần Văn B và bà Nguyễn Thị Ng; Danh chỉ bản số 000000252, lập ngày 10/7/2018 tại công an huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội; Tiền án, tiền sự Không; Biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt. - Bị hại có kháng cáo Chị Trần Thị M, sinh năm 1977; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở Thôn Lưu Thượng, xã Phú Túc, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội; Có mặt. - Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại Trần Thị M Luật sư Phạm Hoàng Việt – Văn phòng luật sư Việt Thanh; Có mặt. - Viện kiểm sát không kháng nghị bản án sơ thẩm. NỘI DUNG VỤ ÁN Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau Gia đình bà Nguyễn Thị Nguyệt và gia đình bà Trần Thị M là hàng xóm cạnh nhau. Sáng ngày 01/5/2018, bà Nguyệt và chồng là Trần Văn Bạ xây lại bức tường rào ngăn cách giữa hai gia đình. Khoảng 09 giờ cùng ngày bà Mãi đi xe đạp qua thì thấy ông Bạ, bà Nguyệt đang xây tường, sẵn có mâu thuẫn từ trước, nên bà Mãi dừng xe nhưng vẫn ngồi trên xe đạp cãi, chửi nhau với bà Nguyệt. Lúc này Trần Văn Ph con trai bà Nguyệt ở trong nhà nghe thấy tiếng cãi, chửi nhau giữa bà Mãi và bà Nguyệt, nên Phú cầm 01 chiếc điếu cày làm bằng tre dài 57cm, đường kính 04cm, không có lõ điếu đi ra để đánh bà Mãi. Thấy Phú cầm điếu cày đến, bà Mãi hoảng sợ nên bị ngã cả người, cả xe xuống đường. Sau đó bà Mãi đứng dậy và gọi “Anh Ba ơi nó đánh em” anh Ba là tên thường gọi của ông Trần Văn Tài là chồng bà Mãi, rồi bà Mãi chạy vào nhà ông Trần Quang Khải ở cạnh đó, nhưng khi chạy đến sân nhà ông Khải thì Phú đuổi kịp và đứng đối diện với bà Mãi, Phú đã dùng điếu cày vụt 01 nhát vào mạng sườn trái bà Mãi. Sau đó ông Khải, bà Nguyệt vào can ngăn, ông Khải từ phía sau ôm Phú, còn bà Nguyệt giằng chiếc điếu cày ra khỏi tay Phú. Thấy vậy, bà Mãi nhặt chiếc cặp lồng ở sân ném về phía Phú, thì trúng vào ông Khải, nhưng không gây thương tích gì. Đồng thời lúc này, ông Trần Văn Tài tên gọi khác là Ba cùng các con là chị Trần Thị Lan, chị Trần Thị Lan Hương, chị Trần Diệu Linh chạy ra chỗ bà Mãi đưa bà Mãi về nhà. Sau khi sự việc xẩy ra bà Trần Thị M được gia đình đưa đến Bệnh viện Vân Đình, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Thanh Nhàn sơ cứu và điều trị đến ngày 16/5/2018 thì ra viện. Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 3036/C54 – TT1 ngày 18/6/2018 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận Kết quả chính Qua kết quả nghiên cứu hồ sơ, khám giám định, khám chuyên khoa và các xét nghiệm, xác định chị Trần Thị M bị chấn thương vùng đầu và ngực kín, gãy xương sườn IX, X trái đã được điều trị. Hiện để lại Gãy cung bên xương sườn IX, X trái, đang can lệch nhẹ. Kết luận Áp dụng Mục 1, Phần II, Chương 4 Bẳng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích ban hành kèm theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT, ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể gãy cung bên xương sườn IX, X trái, đang can lệch nhẹ của chị Trần Thị M tại thời điểm giám định là 07% bảy phần trăm. Cơ chế hình thành thương tích Tổn thương gãy xương sườn IX, X trái của chị Trần Thị M do vật tầy gây lên. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 39/2018/HS-ST ngày 15/10/2018 của Toà án nhân dân huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội đã quyết định 1. Về tội danh Tuyên bố bị cáo Trần Văn Ph phạm tội “Cố ý gây thương tích” 2. Về điều luật áp dụng và hình phạt Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, Điều 38; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn Ph 06 Sáu tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. 3. Về trách nhiệm dân sự Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật hình sự, Điều 584, 585, 586, 590 của Bộ luật dân sự, buộc Trần Văn Ph phải bồi thường cho bà Trần Thị M đồng Ba mươi bẩy triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn sáu trăm bốn mươi đồng được đối trừ đồng Hai mươi triệu đồng bị cáo đã nộp tại Thi hành án dân dự huyện Phú Xuyên, theo biên lai biên thu tiền số AD/2010/0001304 ngày 04/10/2018. Bị cáo còn phải nộp tiếp đồng Mươi bẩy triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn sáu trăm bốn mươi đồng Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về Biện pháp bảo đảm thi hành án; Xử lý vật chứng; Án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm; Quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại theo quy định của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm Ngày 22 tháng 10 năm 2018, bị cáo Trần Văn Ph có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt, cho được hưởng án treo; Ngày 24/10/2018, bị hại Trần Thị M có đơn kháng cáo đề nghị tăng hình phạt tù và mức bồi thường đối với bị cáo. Tại phiên toà phúc thẩm - Bị cáo Trần Văn Ph giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; Bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, điều khoản Luật cấp sơ thẩm đã áp dụng để xét xử bị cáo; Khai báo thành khẩn hành vi phạm tội như tại cơ quan điều tra và cấp sơ thẩm; Ăn năn về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo trình bầy do nhất thời nóng giận, muốn bênh mẹ nên đã cầm chiếc điếu cầy vụt 01 phát vào mạng xườn bị hại, gây thương tích cho bị hại, bản thân thì bị đưa ra xét xử nên ân hận, ăn năn về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã xin lỗi bị hại và đã nghiêm túc chấp hành phán quyết của cấp sơ thẩm nộp khắc phục hậu quả bồi thường cho bị hại toàn bộ số tiền bồi thường và án phí mà cấp sơ thẩm đã tuyên. Bị cáo mong bị hại bỏ qua lỗi lầm và xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo. - Bị hại Trần Thị M giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đã nộp ngày 24/10/2018 và yêu cầu bổ sung đơn kháng cáo nộp ngày 21/01/2019; Bị hại không có ý kiến gì về tội danh, điều khoản Luật cấp sơ thẩm đã áp dụng để xét xử bị cáo; Không chấp nhận lời xin lỗi của bị hại; Đề nghị xem xét đồng phạm đối với bà Trần Thị Nguyệt mẹ bị cáo vì bà Nguyệt hô hào bị cáo ra đánh bị hại, có chị Trần Thị Mun làm chứng; Đề nghị Hội đồng xét xử tăng mức hình phạt và bồi thường đối với bị cáo, cụ thể yêu cầu bị cáo phải bồi thường đồng gồm cả 5 khoản tiền thuốc, viện phí; Tiền ăn uống tại bệnh viện, bồi dưỡng thêm cho bệnh nhân và 30 ngày tiếp theo sau khi về nhà; Tiền xe đi lại khám chữa bệnh, Tiền công lao động bị giảm sút; Tiền bồi thường về tổn thất và tinh thần; Tại phiên toà phúc thẩm không nộp thêm các tài liệu chứng cứ nào khác liên quan đến yêu cầu tăng bồi thường so với mức bồi thường cấp sơ thẩm đã tuyên. - Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại có quan điểm Không có ý kiến gì về tội danh, điều khoản Luật cấp sơ thẩm đã áp dụng để xét xử bị cáo; Nhận thấy bị cáo xin lỗi bị hại nhưng không có thành ý ăn năn, nếu để ở ngoài xã hội là nguy hiểm nên đề nghị xử phạt giam đối với bị cáo; Về bồi thường dân sự thì bị hại yêu cầu bồi thường đồng gồm 1, Tiền thuốc, tiền viện phí trong 18 ngày điều trị đồng 2, Tiền ăn, uống tại bệnh viện cho 02 người mỗi ngày 03 bữa, sáng đồng, trưa đồng tổng cộng 02 người một ngày là đồng/ngày x18 ngày = đồng; Bồi dưỡng sữa 18 ngày là đồng; Hoa quả 18 ngày là đồng; Bồi dưỡng sau khi ra viện 30 ngày là đồng. Tổng là đồng. 3, Tiền xe đi khám chữa bệnh 13 chuyến là đồng. 4, Tiền công lao động giảm sút 18 ngày x đồng x 02 người = đồng; Bác sỹ hướng dẫn yêu cầu bị hại nghỉ 02 tháng không được lao động đồng x 60 ngày = đồng; 06 tháng không được lao động nặng để lành xương bị gẫy 180 ngày x đồng/ngày = đồng. Tổng cộng đồng. 5, Tiền bồi thường tổn thất tinh thần 35 lần x đồng = đồng. Tuy tại phiên toà phúc thẩm bị hại không xuất trình thêm được các chứng cứ về bồi thường, nhưng thực tế số tiền yêu cầu bồi thường trên là chi phí thực tế để chữa trị bồi dưỡng thương tích, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận. - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án Về hình thức Bị cáo, bị hại nộp đơn kháng cáo trong thời hạn Luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo, bị hại theo trình tự phúc thẩm. Về nội dung Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm, nhưng cho hưởng án treo; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo tăng hình phạt và tăng mức bồi thường dân sự của bị hại vì không có căn cứ, giữ nguyên mức bồi thường mà cấp sơ thẩm đã tuyên. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau [1] Về hình thức Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Văn Ph, bị hại Trần Thị M nộp trong thời hạn Luật định nên hợp lệ, được chấp nhận xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. [2] Về nội dung Căn cứ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm, cũng như tại phiên toà phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận Ngày 01/5/2018, do thấy mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Nguyệt và bị hại là bà Trần Thị M có mâu thuẫn, cãi nhau về việc bố mẹ bị cáo xây bức tường ngăn cách giũa hai nhà, nên Trần Văn Ph cầm 01 chiếc điếu cày làm bằng tre dài 57cm, đường kính 04cm, không có lõ điếu đi từ nhà mình ra, đuổi bà Mãi vào sân nhà ông Trần Quang Khải ở tại thôn Lưu Thượng, xã Phú Túc, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội và vụt bà Mãi 01 phát vào mạng xườn trái, làm gẫy cung bên xương sườn IX, X trái. Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 3036/C54-TT1 ngày 18/6/2018 của Viện khoa học hình sự-Bộ Công an đã kết luận tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của chị Trần Thị M tại thời điểm giám định là 07%. Với hành vi trên, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Văn Ph về tội “ Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo, bị hại Hội đồng xét xử nhận thấy Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khoẻ của người khác. Do vậy, phải truy tố và đưa ra xét xử đối với bị cáo mới đảm bảo việc răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Xét thấy, bị cáo là người có trình độ văn hoá nên khi xảy ra mâu thuẫn giữa mẹ bị cáo và bà Mãi thì bị cáo phải can ngăn, nhưng bị cáo đã dùng ngay điếu cày được coi là hung khí nguy hiểm đuổi đánh, gây thương tích cho bà Mãi, gây mất trật tự trị an nên cần thiết phải tăng hình phạt đối với bị cáo mới đảm bảo việc răn đe. Tuy nhiên, xem xét đánh giá nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; Có nơi cư trú rõ ràng; Tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu; Sau khi phạm tội bị cáo Khai báo thành khẩn để cơ quan điều tra nhanh chóng làm rõ vụ án; Ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Trước khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nộp tiền bồi thường khắc phục một phần hậu quả và khi Toà án chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì bị cáo đã tỏ rõ nhận ra sai lầm từ hành vi phạm tội của mình và tự nộp toàn bộ tiền bồi thường khắc phục hậu quả và án phí theo quyết định của bản án sơ thẩm tại cơ quan thi hành án. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo thể hiện thái độ nghiêm túc ăn năn hối cải khi nhận ra hành vi vi phạm pháp luật của mình, đã xin lỗi bị hại tại phiên toà, bị cáo đã nộp toàn bộ số tiền bồi thường cho bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm; Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho được cải tạo ngoài xã hội, dưới sự giám sát giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú, ấn định thời gian thử thách cũng đủ giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Do vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm quyết định chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Chấp nhận kháng cáo của bị hại yêu cầu tăng hình phạt; Tăng mức hình phạt tù đối với bị cáo, nhưng mở lượng khoan hồng của pháp luật, cho bị cáo được hưởng án treo. Về trách nhiệm dân sự Xét yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại của bị hại nhận thấy căn cứ Điều 46, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015 thì bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra cho bị hại các khoản chi phí hợp lý trong việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Trên cơ sở chứng từ thực tế do bà Trần Thị M cung cấp có trong hồ sơ vụ án; Mức sống và sinh hoạt tại địa phương; Sau khi điều trị 16 ngày tại bệnh viện bút lục số 92, ra viện bà Mãi có đi khám lại; Trên cơ sở thương tích của bà Mãi, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của bà Mãi tăng mức bồi thường của bị cáo đối với bị hại, cụ thể chấp nhận các khoản bồi thường như sau 1. Tiền thuê xe đi khám, chữa bệnh 11 lượt vào các ngày 06/5; 12/5; 16/5; 18/5; 23/5; 29/5; 10/6; 20/6; 18/7; 20/7; 27/9 với số tiền là đ 2. Tiền viện đ 3. tiền thuốc đồng 4. Thu nhập bị mất trong thời gian nằm viện và điều trị 16 ngày x = đồng 5. Thu nhập bị mất của người chăm sóc 16 ngày x đồng = đồng 6. Tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ đồng 7. Tổn thất tinh thần 10 lần mức lương cơ sở x đồng = đồng. Tổng số tiền bị cáo phải bồi thường cho bà Trần Thị M là đồng bốn mươi chín triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn bốn trăm bốn mươi đồng. Xác nhận bị cáo đã nộp đồng ba mươi bẩy triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn sáu trăm bốn mươi đồng - tiền bồi thường cho bà Mãi tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Bị cáo còn phải bồi thường đồng mười hai triệu hai trăm linh chín nghìn tám trăm đồng. Xác nhận bị cáo đã nộp án phí hình sự sơ thẩm tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. [3]Về án phí Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. [4]Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Vì các lẽ trên; QUYẾT ĐỊNH Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. I. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn Ph; Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị hại Trần Thị M . II. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 39/2018/HSST ngày 15/10/2018 của Toà án nhân dân huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội; Tăng mức hình phạt, nhưng cho bị cáo hưởng án treo; Tăng mức bồi thường thiệt hại của bị cáo đối với bị hại. Tuyên bố Trần Văn Ph phạm tội “ Cố ý gây thương tích” Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự Xử phạt Trần Văn Ph 09 chín tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 mười tám tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Phú Túc, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Về trách nhiệm dân sự Căn cứ điều 46, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590 Bộ luật đân sự năm 2015 buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại - bà Trần Thị M đồng bốn mươi chín triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn bốn trăm bốn mươi đồng; Xác nhận bị cáo đã nộp đồng ba mươi bẩy triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn sáu trăm bốn mươi đồng tiền bồi thường cho bị hại theo biên lai số AD/2010/0001304 ngày 04/10/2018 và biên lai số AD/2010/0001309 ngày 2310/2018 tại Chị cục thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Bị cáo còn phải bồi thường cho bị hại đồng mười hai triệu hai trăm linh chín nghìn tám trăm đồng. Bị hại - bà Trần Thị M được nhận đồng ba mươi bẩy triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn sáu trăm bốn mươi đồng tiền bị cáo đã bồi thường tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Xác nhận bị cáo đã nộp đồng án phí hình sự sơ thẩm và đồng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số AD/2010/0001308 ngày 23/10/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không trả, thì hàng tháng còn phải trả cho bị hại số tiền lãi theo mức lãi xuất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. III. Về án phí Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo phải chịu đồng sáu trăm mười nghìn bốn trăm chín mươi đồng án phí dân sự phúc thẩm. IV. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án là ngày 25/01/2019. Nguồn
QUỐC HỘI - CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc - Luật số 56/2020/QH14 Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2020 LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp số 13/2012/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 35/2018/QH14. Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp 1. Sửa đổi, bổ sung các khoản 1, 2 và 3 Điều 2 như sau; “1. Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này. 2. Người trưng cầu giám định bao gồm cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. 3. Người yêu cầu giám định là người có quyền tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp nhận. Người có quyền tự mình yêu cầu giám định bao gồm đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.”. 2. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 3 như sau “1. Tuân thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn và quy trình giám định.”. 3. Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 6 như sau “3. Cố ý kéo dài thời gian thực hiện giám định tư pháp hoặc lợi dụng việc trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp để gây khó khăn, cản trở hoạt động tố tụng.”. 4. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 8 như sau a Sửa đổi, bổ sung khoản 1 như sau “1. Văn bản đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đề nghị quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này hoặc đơn đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp của cá nhân đã là giám định viên tư pháp nhưng bị miễn nhiệm do nghỉ hưu hoặc thôi việc để thành lập Văn phòng giám định tư pháp.”; b Sửa đổi, bổ sung khoản 3 như sau “3. Sơ yếu lý lịch và Phiếu lý lịch tư pháp. Trường hợp người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp đang là công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng thì không cần có Phiếu lý lịch tư pháp.”. 5. Sửa đổi, bổ sung tên điều và một số khoản của Điều 9 như sau a Sửa đổi, bổ sung tên điều như sau “Điều 9. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục bổ nhiệm giám định viên tư pháp và cấp thẻ giám định viên tư pháp”; b Sửa đổi, bổ sung khoản 2 như sau “2. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có trách nhiệm lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này, đề nghị Bộ trưởng Bộ Y tế bổ nhiệm giám định viên pháp y thuộc bộ mình. Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an bổ nhiệm giám định viên kỹ thuật hình sự thuộc bộ, ngành mình. Thủ trưởng đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ được giao quản lý hoạt động giám định tư pháp có trách nhiệm lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này, đề nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ bổ nhiệm giám định viên tư pháp ở lĩnh vực giám định thuộc thẩm quyền quản lý. Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý lĩnh vực giám định tư pháp có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Giám đốc Sở Tư pháp lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này, tiếp nhận hồ sơ của người đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp quy định tại Điều 8 của Luật này, đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm giám định viên tư pháp ở địa phương. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định bổ nhiệm giám định viên tư pháp. Trường hợp từ chối thì phải thông báo cho người đề nghị bằng văn bản và nêu rõ lý do.”; c Bổ sung khoản 4 vào sau khoản 3 như sau “4. Người được bổ nhiệm giám định viên tư pháp được cấp thẻ giám định viên tư pháp. Người có thẩm quyền bổ nhiệm giám định viên tư pháp quy định tại khoản 1 Điều này có thẩm quyền cấp mới, cấp lại thẻ giám định viên tư pháp. Mẫu thẻ, trình tự, thủ tục cấp mới, cấp lại thẻ giám định viên tư pháp được thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.”. 6. Sửa đổi, bổ sung Điều 10 như sau “Điều 10. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục miễn nhiệm giám định viên tư pháp và thu hồi thẻ giám định viên tư pháp 1. Các trường hợp miễn nhiệm giám định viên tư pháp a Không còn đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; b Thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này; c Bị xử lý kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính do cố ý vi phạm quy định của pháp luật về giám định tư pháp; d Thực hiện một trong các hành vi quy định tại Điều 6 của Luật này; đ Có quyết định nghỉ hưu hoặc quyết định thôi việc, trừ trường hợp có văn bản thể hiện nguyện vọng tiếp tục tham gia hoạt động giám định tư pháp và cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp có nhu cầu sử dụng phù hợp với quy định của pháp luật; e Chuyển đổi vị trí công tác hoặc chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức khác mà không còn điều kiện phù hợp để tiếp tục thực hiện giám định tư pháp; g Theo đề nghị của giám định viên tư pháp. Trường hợp giám định viên tư pháp là công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng thì phải được sự chấp thuận của cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp; h Giám định viên tư pháp được bổ nhiệm để thành lập Văn phòng giám định tư pháp nhưng sau thời hạn 01 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm không thành lập Văn phòng hoặc sau thời hạn 01 năm, kể từ ngày có quyết định cho phép thành lập Văn phòng mà không đăng ký hoạt động. 2. Hồ sơ đề nghị miễn nhiệm giám định viên tư pháp bao gồm a Văn bản đề nghị miễn nhiệm giám định viên tư pháp của cơ quan, tổ chức quản lý giám định viên tư pháp hoặc đơn xin miễn nhiệm của giám định viên tư pháp; b Văn bản, giấy tờ chứng minh giám định viên tư pháp thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này. 3. Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét, đề nghị Bộ trưởng Bộ Y tế miễn nhiệm giám định viên pháp y thuộc thẩm quyền quản lý. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an miễn nhiệm giám định viên kỹ thuật hình sự thuộc thẩm quyền quản lý. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ miễn nhiệm giám định viên tư pháp hoạt động tại các cơ quan ở trung ương ở lĩnh vực giám định thuộc thẩm quyền quản lý theo đề nghị của Thủ trưởng đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ được giao quản lý hoạt động giám định tư pháp. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh miễn nhiệm giám định viên tư pháp ở địa phương theo đề nghị của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý lĩnh vực giám định tư pháp sau khi thống nhất ý kiến với Giám đốc Sở Tư pháp. 4. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định miễn nhiệm giám định viên tư pháp, thu hồi thẻ giám định viên tư pháp và điều chỉnh danh sách giám định viên tư pháp trên cổng thông tin điện tử của bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời gửi Bộ Tư pháp để điều chỉnh danh sách chung về giám định viên tư pháp.”. 7. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 11 như sau “2. Từ chối giám định trong trường hợp nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định không phù hợp với phạm vi chuyên môn hoặc không có đủ năng lực, điều kiện cần thiết cho việc thực hiện giám định; đối tượng giám định, tài liệu liên quan được cung cấp không đầy đủ hoặc không có giá trị để kết luận giám định tư pháp sau khi đã đề nghị người trưng cầu, người yêu cầu giám định bổ sung, làm rõ nhưng không được đáp ứng; thời gian không đủ để thực hiện giám định; tính độc lập, khách quan của việc thực hiện giám định không được bảo đảm. Trường hợp từ chối giám định thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trưng cầu hoặc yêu cầu giám định, phải thông báo cho người trưng cầu, người yêu cầu giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do.”. 8. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 12 như sau a Sửa đổi, bổ sung khoản 4 và khoản 5 như sau “4. Tổ chức giám định tư pháp công lập về kỹ thuật hình sự bao gồm a Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; b Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh; c Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng; d Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 5. Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện giám định về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện tử. Căn cứ vào nhu cầu và điều kiện thực tế của địa phương, Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh có giám định viên pháp y thực hiện giám định pháp y tử thi.”; b Sửa đổi, bổ sung khoản 7 như sau “7. Chính phủ quy định chi tiết chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của tổ chức giám định tư pháp công lập quy định tại khoản 2, khoản 3, các điểm a, b và c khoản 4 Điều này. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.”. 9. Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 15 như sau “a Có từ đủ 03 năm trở lên là giám định viên tư pháp và có hoạt động giám định trong lĩnh vực đề nghị thành lập Văn phòng;”. 10. Sửa đổi, bổ sung Điều 20 như sau “Điều 20. Công nhận và đăng tải danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc 1. Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bộ, cơ quan ngang bộ khác, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lựa chọn cá nhân, tổ chức có đủ tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này để ra quyết định công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý để đáp ứng yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng. Danh sách kèm theo thông tin về chuyên ngành giám định, kinh nghiệm, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc được đăng tải, rà soát và cập nhật trên cổng thông tin điện tử của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời gửi Bộ Tư pháp để lập danh sách chung. 2. Danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc quy định tại khoản 1 Điều này là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lựa chọn, quyết định việc trưng cầu giám định, Trong trường hợp đặc biệt, người trưng cầu giám định có thể trưng cầu cá nhân, tổ chức chuyên môn có đủ tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này không thuộc danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc đã công bố để thực hiện giám định nhưng phải nêu rõ lý do trong quyết định trưng cầu. Theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Kiểm toán nhà nước, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan trung ương đóng trên địa bàn cấp tỉnh có trách nhiệm giới thiệu cá nhân, tổ chức có đủ tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này ngoài danh sách đã công bố để thực hiện giám định.”. 11. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 21 như sau “2. Người trưng cầu giám định có nghĩa vụ a Xác định rõ nội dung, lĩnh vực hoặc chuyên ngành cần giám định trong vụ án, vụ việc đang giải quyết; lựa chọn cá nhân, tổ chức có năng lực, đủ điều kiện thực hiện giám định phù hợp với tính chất, nội dung cần giám định để ra quyết định trưng cầu giám định; b Ra quyết định trưng cầu giám định bằng văn bản; c Cung cấp kịp thời, đầy đủ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu, mẫu vật có liên quan đến đối tượng, nội dung cần giám định theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp; d Tạm ứng, thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định tư pháp; đ Thực hiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ người giám định tư pháp hoặc người thân thích của người giám định tư pháp khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người giám định tư pháp hoặc người thân thích của người giám định tư pháp bị đe dọa do việc thực hiện giám định tư pháp, tham gia vụ án, vụ việc với tư cách là người giám định tư pháp.”. 12. Sửa đổi, bổ sung một số điểm, khoản của Điều 22 như sau a Sửa đổi, bổ sung khoản 1 như sau “1. Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu trưng cầu giám định, phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.”; b Sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 2 như sau “d Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định lại; yêu cầu giám định bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.”. 13. Bổ sung các điểm d, đ và e vào sau điểm c khoản 1 Điều 23 như sau “d Đề nghị người trưng cầu giám định hoặc cơ quan có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật khi có dấu hiệu bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bản thân hoặc người thân thích do việc thực hiện giám định tư pháp, tham gia vụ án, vụ việc với tư cách là người giám định tư pháp; đ Từ chối thực hiện giám định tư pháp trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật này; e Được bố trí vị trí phù hợp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa.”. 14. Sửa đổi, bổ sung Điều 24 như sau “Điều 24. Quyền, nghĩa vụ của tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp 1. Tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp có quyền a Yêu cầu người trưng cầu, người yêu cầu giám định cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin, tài liệu, mẫu vật cần thiết cho việc giám định; b Từ chối tiếp nhận trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp trong trường hợp nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định không phù hợp với phạm vi chuyên môn hoặc không có đủ năng lực, điều kiện cần thiết cho việc thực hiện giám định; đối tượng giám định, tài liệu liên quan được cung cấp không đầy đủ hoặc không có giá trị để kết luận giám định tư pháp sau khi đã đề nghị người trưng cầu, người yêu cầu giám định bổ sung, làm rõ nhưng không được đáp ứng; thời gian không đủ để thực hiện giám định; tính độc lập, khách quan của việc thực hiện giám định không được bảo đảm; c Được nhận tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi nhận trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp; được thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định tư pháp khi trả kết quả giám định. 2. Tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp có nghĩa vụ a Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp, phải phân công người có trình độ chuyên môn, khả năng nghiệp vụ phù hợp với nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định, chịu trách nhiệm về năng lực chuyên môn của người đó và thông báo cho người trưng cầu, người yêu cầu giám định, trừ trường hợp pháp luật quy định thời hạn ngắn hơn. Người đứng đầu tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định có trách nhiệm chỉ đạo, đôn đốc việc tổ chức thực hiện giám định, trường hợp cần có từ 02 người trở lên thực hiện vụ việc giám định thì phải phân công người chịu trách nhiệm điều phối việc thực hiện giám định; b Bảo đảm thời gian, trang thiết bị, phương tiện và các điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện giám định. Trong quá trình thực hiện giám định, nếu có nội dung mới hoặc vấn đề khác phát sinh thì cá nhân, tổ chức thực hiện giám định phải thông báo ngay bằng văn bản cho người trưng cầu, người yêu cầu giám định biết để thống nhất phương án giải quyết; c Bồi thường thiệt hại trong trường hợp người thực hiện giám định do mình phân công cố ý kết luận giám định sai, gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức; d Trường hợp từ chối tiếp nhận trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp thì phải thông báo cho người trưng cầu, người yêu cầu giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định, trừ trường hợp pháp luật quy định thời hạn ngắn hơn; đ Chịu trách nhiệm về kết luận giám định tư pháp do mình đưa ra.”. 15. Sửa đổi, bổ sung Điều 25 như sau “Điều 25. Trưng cầu giám định tư pháp 1. Người trưng cầu giám định quyết định trưng cầu giám định tư pháp bằng văn bản và gửi quyết định kèm theo đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan nếu có đến cá nhân, tổ chức thực hiện giám định. Trường hợp đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan không thể gửi kèm theo quyết định trưng cầu giám định thì người trưng cầu giám định có trách nhiệm làm thủ tục bàn giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định. 2. Quyết định trưng cầu giám định phải có các nội dung sau đây a Tên cơ quan trưng cầu giám định; hạ, tên người có thẩm quyền trưng cầu giám định; b Tên tổ chức; họ, tên người được trưng cầu giám định; c Tóm tắt nội dung sự việc; d Tên và đặc điểm của đối tượng cần giám định; đ Tên tài liệu, đồ vật có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo nếu có; e Nội dung chuyên môn của vấn đề cần giám định; g Ngày, tháng, năm trưng cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định tư pháp. 3. Trường hợp trưng cầu giám định bổ sung hoặc trưng cầu giám định lại thì quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ là trưng cầu giám định bổ sung hoặc trưng cầu giám định lại và lý do của việc giám định bổ sung hoặc giám định lại. 4. Trong trường hợp cần thiết, trước khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trao đối với cá nhân, tổ chức dự kiến được trưng cầu giám định và cơ quan có liên quan về nội dung trưng cầu, thời hạn giám định, thông tin, tài liệu, mẫu vật cần cho việc giám định và các vấn đề khác có liên quan nếu có. 5. Trường hợp nội dung cần giám định liên quan đến nhiều lĩnh vực, thuộc trách nhiệm của nhiều tổ chức thì người trưng cầu giám định phải tách riêng từng nội dung để trưng cầu tổ chức có chuyên môn phù hợp thực hiện giám định. Trường hợp các nội dung giám định liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên môn có quan hệ mật thiết với nhau, thuộc trách nhiệm của nhiều tổ chức mà việc tách riêng từng nội dung gây khó khăn cho việc thực hiện giám định, ảnh hưởng đến tính chính xác của kết quả giám định hoặc kéo dài thời gian giám định thì người trưng cầu giám định phải xác định được nội dung chính cần giám định để xác định tổ chức chủ trì và tổ chức phối hợp trong việc thực hiện giám định. Tổ chức chủ trì có trách nhiệm làm đầu mối tổ chức triển khai việc giám định chung và thực hiện giám định phần nội dung chuyên môn của mình. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trưng cầu giám định, tổ chức được trưng cầu giám định tư pháp phải có văn bản cử người giám định gửi người trưng cầu giám định; đối với tổ chức phối hợp thực hiện giám định thì còn phải gửi văn bản cử người giám định cho tổ chức chủ trì việc thực hiện giám định. Tổ chức chủ trì phải tổ chức ngay việc giám định sau khi nhận được văn bản cử người của tổ chức phối hợp thực hiện giám định. Việc giám định trong trường hợp này được thực hiện theo hình thức giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau quy định tại khoản 3 Điều 28 của Luật này. Trường hợp phát sinh vướng mắc trong việc trưng cầu, phối hợp thực hiện giám định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ trì, phối hợp với tổ chức được trưng cầu để giải quyết.”. 16. Bổ sung Điều 26a vào sau Điều 26 như sau “Điều 26a. Thời hạn giám định tư pháp trong trường hợp trưng cầu giám định 1. Thời hạn giám định tư pháp được tính từ ngày cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định nhận được quyết định trưng cầu giám định và kèm theo đầy đủ hồ sơ, đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật, mẫu vật cần thiết cho việc giám định. Trong quá trình thực hiện giám định, trường hợp cần phải bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu làm cơ sở cho việc giám định thì cá nhân, tổ chức được trưng cầu có văn bản đề nghị người đã trưng cầu giám định bổ sung hồ sơ, tài liệu. Thời gian từ khi cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định có văn bản đề nghị đến khi nhận được hồ sơ, tài liệu bổ sung không tính vào thời hạn giám định. 2. Thời hạn giám định tư pháp đối với các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định tư pháp được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. 3. Thời hạn giám định tư pháp đối với các trường hợp không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này tối đa là 03 tháng. Trường hợp vụ việc giám định có tính chất phức tạp hoặc khối lượng công việc lớn thì thời hạn giám định tối đa là 04 tháng. Bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp căn cứ vào thời hạn giám định tối đa và tính chất chuyên môn của lĩnh vực giám định quy định thời hạn giám định tư pháp cho từng loại việc cụ thể. Thời hạn giám định tư pháp có thể được gia hạn theo quyết định của cơ quan trưng cầu giám định nhưng không quá một phần hai thời hạn giám định tối đa đối với loại việc đó. 4. Người trưng cầu giám định có thể thống nhất về thời hạn giám định với cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định trước khi trưng cầu giám định tư pháp nhưng không được vượt quá thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này. 5. Trường hợp có vấn đề phát sinh hoặc có cơ sở cho rằng vụ việc giám định không thể hoàn thành đúng thời hạn thì cá nhân, tổ chức thực hiện giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho người trưng cầu giám định và thời gian dự kiến hoàn thành, ra kết luận giám định.”. 17. Sửa đổi, bổ sung Điều 31 như sau “Điều 31. Văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định tư pháp 1. Người thực hiện giám định tư pháp phải ghi nhận kịp thời, đầy đủ, trung thực bằng văn bản toàn bộ quá trình thực hiện vụ việc giám định. 2. Văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định tư pháp nêu rõ tình trạng đối tượng gửi giám định và thông tin, tài liệu có liên quan gửi kèm theo làm căn cứ để thực hiện giám định, thời gian, địa điểm, nội dung công việc, tiến độ, phương pháp thực hiện giám định, kết quả thực hiện và phải có chữ ký của người giám định tư pháp. Văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định tư pháp phải được lưu trong hồ sơ giám định.”. 18. Sửa đổi, bổ sung Điều 32 như sau “Điều 32. Kết luận giám định tư pháp 1. Kết luận giám định tư pháp phải bằng văn bản, bao gồm các nội dung sau đây a Họ, tên người giám định tư pháp; tổ chức thực hiện giám định tư pháp; b Tên cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, họ, tên người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định tư pháp; số văn bản trưng cầu giám định hoặc họ, tên người yêu cầu giám định; c Thông tin xác định đối tượng giám định; d Thời gian nhận văn bản trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp; đ Nội dung yêu cầu giám định; e Phương pháp thực hiện giám định; g Kết luận rõ ràng, cụ thể về nội dung chuyên môn của đối tượng cần giám định theo trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp; h Thời gian, địa điểm thực hiện, hoàn thành việc giám định. 2. Trong trường hợp trưng cầu, yêu cầu cá nhân thực hiện giám định tư pháp thì bản kết luận giám định tư pháp phải có chữ ký và ghi rõ họ, tên của người giám định tư pháp. Trường hợp yêu cầu tổ chức cử người giám định thì bản kết luận giám định tư pháp phải có đầy đủ chữ ký, ghi rõ họ, tên của người giám định tư pháp và có xác nhận chữ ký của tổ chức cử người giám định. Trường hợp trưng cầu, yêu cầu tổ chức thực hiện giám định tư pháp thì ngoài chữ ký, họ, tên của người giám định, người đứng đầu tổ chức còn phải ký tên, đóng dấu vào bản kết luận giám định tư pháp và tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp phải chịu trách nhiệm về kết luận giám định tư pháp. Trường hợp Hội đồng giám định quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật này thực hiện giám định thì người có thẩm quyền quyết định thành lập Hội đồng phải ký tên, đóng dấu vào bản kết luận giám định tư pháp và chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của Hội đồng giám định. 3. Trong trường hợp việc giám định được thực hiện trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, theo đúng trình tự, thủ tục do Luật này quy định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể sử dụng kết luận giám định đó như kết luận giám định tư pháp.”. 19. Sửa đổi, bổ sung các khoản 2, 3 và 4 Điều 33 như sau “2. Hồ sơ giám định tư pháp phải được lập theo mẫu thống nhất. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm quy định chi tiết về mẫu, thành phần hồ sơ từng loại việc giám định và chế độ lưu trữ hồ sơ giám định tư pháp ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý. 3. Tổ chức được trưng cầu, thực hiện giám định tư pháp chịu trách nhiệm bảo quản, lưu trữ hồ sơ giám định tư pháp do người giám định thuộc tổ chức mình thực hiện theo quy định của pháp luật về lưu trữ và quy định của bộ, ngành, cơ quan mình. Người thực hiện giám định có trách nhiệm bàn giao hồ sơ giám định tư pháp cho cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp theo quy định của pháp luật về lưu trữ và quy định của bộ, ngành, cơ quan mình. 4. Hồ sơ giám định tư pháp được xuất trình khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự.”. 20. Sửa đổi, bổ sung Điều 36 như sau “Điều 36. Chi phí giám định tư pháp 1. Người trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có trách nhiệm trả chi phí giám định tư pháp cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp theo quy định của pháp luật về chi phí giám định tư pháp. 2. Kinh phí thanh toán chi phí giám định tư pháp mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chi trả được bảo đảm từ ngân sách nhà nước theo dự toán hằng năm của cơ quan đó để thực hiện nhiệm vụ giám định tư pháp.”. 21. Bổ sung khoản 1a vào sau khoản 1 Điều 37 như sau “1a. Việc thực hiện giám định tư pháp của công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng là hoạt động công vụ. Cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp có trách nhiệm bảo đảm đủ thời gian và các điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện giám định. Người thực hiện giám định được hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật Người giám định tư pháp không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc không do Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động tiếp nhận và thực hiện giám định tư pháp trên cơ sở thỏa thuận với người trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định.”. 22. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 38 như sau “2. Người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc có đóng góp tích cực cho hoạt động giám định tư pháp thì được tôn vinh, khen thưởng.”. 23. Sửa đổi, bổ sung Điều 41 như sau “Điều 41. Nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ 1. Bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây a Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giám định tư pháp ở lĩnh vực giám định thuộc thẩm quyền quản lý và hướng dẫn thi hành các văn bản đó; b Ban hành quy trình giám định; ban hành hoặc hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp; căn cứ yêu cầu và tính chất đặc thù của lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý quy định cụ thể về thời hạn đối với từng loại việc giám định; c Chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc quyết định thành lập, củng cố, kiện toàn tổ chức giám định tư pháp công lập thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định của Luật này; phân công đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ làm đầu mối quản lý chung công tác giám định tư pháp; d Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cấp thẻ, thu hồi thẻ giám định viên tư pháp theo thẩm quyền; công nhận danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; đăng tải và cập nhật danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên cổng thông tin điện tử của bộ, ngành mình, đồng thời gửi danh sách đó cho Bộ Tư pháp; đ Chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về bảo đảm số lượng, chất lượng hoạt động của người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp; bảo đảm kinh phí, trang thiết bị, phương tiện giám định và điều kiện vật chất cần thiết khác cho cá nhân, tổ chức giám định thuộc bộ, ngành mình quản lý; e Hằng năm, đánh giá chất lượng hoạt động của cá nhân, tổ chức giám định tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý; kịp thời tôn vinh, khen thưởng cá nhân, tổ chức giám định tư pháp có thành tích xuất sắc trong hoạt động giám định tư pháp; g Quy định điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện giám định của Văn phòng giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý; h Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ giám định tư pháp, kiến thức pháp luật cho người giám định tư pháp ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý; i Kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý; phối hợp với Bộ Tư pháp trong công tác kiểm tra, thanh tra về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp theo quy định tại khoản 6 Điều 40 của Luật này; k Thực hiện hợp tác quốc tế về giám định tư pháp ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý; l Trước ngày 31 tháng 12 hằng năm, tổng kết về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý và gửi báo cáo về Bộ Tư pháp để tổng hợp, báo cáo Chính phủ. 2. Cơ quan thuộc Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây a Xây dựng quy trình giám định đề nghị bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp ban hành theo thẩm quyền; b Công nhận danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; đăng tải và cập nhật danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên cổng thông tin điện tử của cơ quan mình, đồng thời gửi danh sách đó cho Bộ Tư pháp; hằng năm, tổng kết, gửi Bộ Tư pháp báo cáo về hoạt động giám định tư pháp của cơ quan mình; c Nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điểm đ, e và h khoản 1 Điều này.”. 24. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 42 như sau a Sửa đổi, bổ sung điểm đ khoản 2 như sau “đ Ban hành chỉ tiêu thống kê, thực hiện thống kê hằng năm về trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp, đánh giá việc thực hiện giám định tư pháp và sử dụng kết luận giám định tư pháp, nhu cầu giám định trong hệ thống cơ quan điều tra thuộc thẩm quyền quản lý;”; b Sửa đổi, bổ sung điểm h và bổ sung điểm i vào sau điểm h khoản 2 như sau “h Hằng năm, tổng kết và gửi báo cáo về Bộ Tư pháp, đồng thời gửi bộ, ngành có liên quan về tình hình trưng cầu giám định tư pháp, đánh giá việc thực hiện giám định tư pháp và sử dụng kết luận giám định tư pháp, nhu cầu giám định trong hệ thống cơ quan điều tra thuộc thẩm quyền quản lý; chỉ đạo Công an cấp tỉnh gửi báo cáo về Sở Tư pháp, đồng thời gửi sở, ngành có liên quan về tình hình trưng cầu giám định tư pháp, đánh giá việc thực hiện giám định tư pháp và sử dụng kết luận giám định tư pháp, nhu cầu giám định ở địa phương; i Lập dự toán và đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp kinh phí bảo đảm chi trả chi phí giám định tư pháp; trường hợp kinh phí được cấp không đủ thì lập dự toán để cấp bổ sung bảo đảm chi trả kịp thời, đầy đủ chi phí giám định tư pháp theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.”; c Sửa đổi, bổ sung khoản 3 như sau “3. Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điểm đ, e, g và i khoản 2 Điều này; hằng năm, tổng kết và gửi báo cáo về Bộ Tư pháp, đồng thời gửi bộ, ngành có liên quan về tình hình trưng cầu giám định tư pháp, đánh giá việc thực hiện giám định tư pháp và sử dụng kết luận giám định tư pháp, nhu cầu giám định trong hệ thống cơ quan điều tra thuộc thẩm quyền quản lý.”. 25. Sửa đổi, bổ sung một số điểm, khoản của Điều 43 như sau a Sửa đổi, bổ sung các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 như sau “a Thành lập tổ chức giám định tư pháp công lập; quyết định cho phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp; b Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cấp thẻ, thu hồi thẻ giám định viên tư pháp theo thẩm quyền; công nhận danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc ở địa phương; đăng tải và cập nhật danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời gửi danh sách đó cho Bộ Tư pháp; c Bảo đảm kinh phí, trang thiết bị, phương tiện giám định và điều kiện vật chất cần thiết khác cho cá nhân, tổ chức giám định tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý; d Tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho người giám định tư pháp ở địa phương; đ Hằng năm, đánh giá chất lượng hoạt động của cá nhân, tổ chức giám định tư pháp ở địa phương theo quy định của Chính phủ, kịp thời tôn vinh, khen thưởng cá nhân, tổ chức giám định tư pháp có thành tích xuất sắc trong hoạt động giám định tư pháp và báo cáo kết quả cho Bộ Tư pháp;”; b Sửa đổi, bổ sung khoản 2 như sau “2. Sở Tư pháp có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về giám định tư pháp ở địa phương; chủ trì, phối hợp với cơ quan chuyên môn khác giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý hoạt động của Văn phòng giám định tư pháp. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý lĩnh vực giám định tư pháp chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp thuộc lĩnh vực quản lý; phối hợp với Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý nhà nước về giám định tư pháp ở địa phương; phân công đơn vị làm đầu mối giúp cơ quan chuyên môn trong việc quản lý công tác giám định tư pháp ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý.”. 26. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 44 như sau a Sửa đổi, bổ sung khoản 2 như sau “2. Ban hành chỉ tiêu thống kê, thực hiện thống kê về trưng cầu, đánh giá việc thực hiện giám định tư pháp và sử dụng kết luận giám định tư pháp, nhu cầu giám định trong hệ thống cơ quan Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và báo cáo Quốc hội trong báo cáo công tác hằng năm, đồng thời gửi báo cáo về Bộ Tư pháp, bộ, ngành có liên quan; chỉ đạo Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gửi báo cáo về Sở Tư pháp, đồng thời gửi sở, ngành có liên quan về tình hình trưng cầu giám định tư pháp, đánh giá việc thực hiện giám định tư pháp và sử dụng kết luận giám định tư pháp, nhu cầu giám định ở địa phương.”; b Sửa đổi, bổ sung khoản 4, bổ sung khoản 5 và khoản 6 vào sau khoản 4 như sau “4. Lập dự toán và đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp kinh phí bảo đảm chi trả chi phí giám định tư pháp, chi phí tham dự phiên tòa của người giám định trong hệ thống cơ quan Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; trường hợp kinh phí được cấp không đủ thì lập dự toán để cấp bổ sung bảo đảm chi trả kịp thời, đầy đủ chi phí giám định tư pháp và chi phí tham dự phiên tòa của người giám định theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. 5. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định việc bố trí vị trí của người giám định tư pháp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa. 6. Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thành lập, củng cố, kiện toàn tổ chức của Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đăng tải và cập nhật danh sách giám định viên tư pháp trên cổng thông tin điện tử của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời gửi danh sách đó cho Bộ Tư pháp; kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp của Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc thẩm quyền quản lý; hằng năm, đánh giá chất lượng hoạt động giám định tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý; kịp thời tôn vinh, khen thưởng cá nhân, tổ chức giám định tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý có thành tích xuất sắc trong hoạt động giám định tư pháp; trước ngày 31 tháng 12 hằng năm, tổng kết về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý và gửi báo cáo về Bộ Tư pháp để tổng hợp báo cáo Chính phủ.”. 27. Bãi bỏ khoản 3 Điều 45. 28. Thay thế cụm từ “cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh” bằng cụm từ “cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh” tại khoản 3 Điều 16, khoản 3 Điều 17 và khoản 3 Điều 19. Điều 2. Hiệu lực thi hành Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021. Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 10 tháng 6 năm 2020. CHỦ TỊCH QUỐC HỘI Nguyễn Thị Kim Ngân
1. Quy định của pháp luật. Giám định tư pháp nó đánh giá trình độ phát triển pháp luật, mức độ dân chủ của một Quốc gia. Trước đây hoạt động giám định được thực hiện nhằm cung cấp các chứng cứ để phục vụ cho việc giải quyết các vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiện nay, thì hoạt động giám định còn để phục vụ công tác quản lý Nhà nước, thanh tra, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ, giao dịch dân sự của tổ chức, cá nhân. Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này. Điều 2 Luật giám định tư pháp. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được phân công nhiệm vụ trong khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, nếu đương sự hoặc người đại diện của họ đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thông báo cho người đã đề nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do. Hết thời hạn này hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì người đề nghị giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định. Theo quy định tại Điều 206 BLTTHS năm 2015 đối với các vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng bắt buôc phải trưng cầu giám định, gồm “ 1. Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án; 2. Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; 3. Nguyên nhân chết người; 4. Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; 5. Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ; 6. Mức độ ô nhiễm môi trường.” Có thể thấy, kết luận giám định có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thu thập, xác lập chứng cứ, củng cố chứng cứ, kiểm tra chứng cứ là cơ sở để các cơ quan, người tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Kết luận giám định sai có thể dẫn đến oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Do tính chất quan trọng như vậy BLTTHS năm 2015 và Luật giám định tư pháp năm 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020 đã quy định việc giám định lại, giám định bổ sung. Theo quy định Điều 210 BLTTHS thì giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp “Nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ; Khi phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó.” Tại Điều 211 BLTTHS thì “Việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện”. Giám định lại có thể tiến hành lần thứ hai khi có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định. Việc giám định lần hai do người trưng cầu giám định quyết định và phải do Hội đồng giám định thực hiện. Hội đồng giám định phải có ít nhất 03 thành viên là Giám định viên, người có chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định. Theo khoản 3 Điều 28 Luật giám định tư pháp thì Hội đồng giám định hoạt động theo cơ chế giám định tập thể, các cơ quan giám định tư pháp là độc lập nhau, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả giám định, không có quy định cơ quan giám định cấp cao hơn. Kết luận giám định tư pháp mang tính khoa học, là một trong những nguồn chứng cứ được thu thập theo thủ tục tố tụng, làm căn cứ cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá và quyết định khi giải quyết vụ án. Do đó, BLTTHS và Luật giám định tư pháp không đặt ra yêu cầu xác định “Kết luận giám định cuối cùng” do không thể coi kết luận giám định của một cấp nào đó là tuyệt đối đúng. Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là cần xem xét, đánh giá kết luận giám định cùng với các nguồn chứng cứ khác. Trường hợp có mâu thuẫn về kết luận giám định, nếu thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng quyết định trưng cầu giám định lại. Nhằm hạn chế việc giám định nhiều lần và có điểm dừng tại Điều 30 của Luật giám định tư pháp cũng quy định “ Nếu vụ việc đã được Hội đồng giám định lần hai thì không giám định lại nữa, trừ trường hợp đặc biệt do Chánh án TAND rối cao, Viện trưởng VKSND tối cao quyết định”. Đồng thời theo quy định tại Điều 212 BLTTHS năm 2015 thì “Kết luận giám định lại trong trường hợp do Hội đồng giám định thực hiện trong trường hợp đặc biệt được sử dụng để giải quyết vụ án”. Đây là những quy định thể hiện tính nhân đạo của Nước ta được quy định trong Hiến pháp năm 2013 đối với người có dấu hiệu tội phạm, thể hiện sự khoan hồng, dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người. 2. Bất cập trong quy định Mặc dù, BLTTHS năm 2015 sửa đổi năm 2017; Luật giám định tư pháp năm 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020 và các Văn bản, Thông tư hướng dẫn của đã quy định, hướng dẫn, áp dụng về giám định tư pháp. Tuy nhiên, thực tế hiện nay nhiều Tòa án nhân dân địa phương vẫn còn lúng túng trong các vụ án hình sự có nhiều kết luận giám định của các tổ chức giám định kết quả khác nhau. Qua nghiên cứu các Bản án, quyết định ở một số đơn vị, chúng tôi thấy Ở mỗi cơ quan tố tụng tại các địa phương khác nhau có cách hiểu và giải quyết kết luận giám định là khác nhau, vẫn còn có nhiều quan điểm, ý kiến trái chiều nhau. Trên đây là một trường hợp cụ thể và là anh em ruột. Hai bên có mâu thuẫn với nhau từ trước trong việc tranh chấp đất đai, tài sản của bố mẹ, nên thường xuyên cãi nhau. Đến ngày 14/02/2019, Q đe dọa sẽ đánh V, V thách thức lại Đ. Q nhặt gậy gỗ trong nhà bếp gậy gỗ cầm bằng tay phải đánh V từ phía sau theo hướng từ trên xuống trúng vào vùng lưng, bụng, tay và chân. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 60/2019/TgT ngày 14/03/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh G, kết luận Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của V là 13%. Không đồng ý với kết luận giám định nêu trên cả Q và V đều yêu cầu giám định lại, tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 23/TgT-TTPY ngày 15/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ giám định lại, kết luận Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 09%. Tại bản Cáo trạng số 13/CT-VKS của Viện kiểm sát nhân dân thị xã A, tỉnh G truy tố bị cáo Đ. Q về tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm a khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Với lý do tỷ lệ thương tật mà Đ. Q đã gây ra cho Đ. V là 13 % với tình tiết định khung “Dùng hung khí nguy hiểm”. Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra, truy tố và xét xử bị cáo Đ. Q theo khoản 1 Điều 134 BLHS, nhưng VKS cùng cấp vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố theo như bản Cáo trạng số 13/CT-VKS. Tại Quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán đã dự kiến của sẽ xét xử bị cáo Đ. Q theo khoản 1 Điều 134 BLHS, tại phiên tòa bị hại có “Đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án”. Quan điểm thứ nhất cho rằng Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 23/TgT-TTPY ngày 15/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ giám định lại kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với bị hại là 9% là kết luận tại thời điểm giám định lại. Viện kiểm sát không chấp nhận kết luận giám định này mà sử dụng kết luận giám định lần đầu của Trung tâm giám định pháp y tỉnh G 13% để giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 134 BLHS. Quan điểm thứ hai cho rằng Kết luận giám định của Trung tâm giám định pháp y tỉnh G có sai sót về tỉ lệ kết luận, không đúng với quy định của Thông tư số 20/2014/TT-BYT của Bộ Y tế nên đã chấp nhận yêu cầu giám định lại của bị cáo và bị hại. Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 23/TgT-TTPY ngày 15/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ giám định lại kết luận tỷ lệ thương tích của bị hại là 09% là phù hợp với quy định của Thông tư số 20/2014/TT-BYT, cần được sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án. Với tỉ lệ thương tích này, bị cáo chỉ bị xử lý theo khoản 1 Điều 134 BLHS, nên khi bị hại có “Đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án và khởi tố bị can” thì vụ án phải được đình chỉ theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quan điểm thứ ba Do kết luận giám tư pháp định ở hai lần có kết quả khác nhau, giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do Hội đồng giám định thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật giám định tư pháp và kết luận giám định lại trong trường hợp do Hội đồng giám định thực hiện trong trường hợp đặc biệt được sử dụng để giải quyết vụ án Điều 212 BLTTHS. Vì vậy, trong vụ án này HĐXX phải hoãn phiên tòa, tiến hành trưng cầu giám định tư pháp lần thứ hai do Hội đồng giám định thực hiện. 3. Cần có hướng dẫn thống nhất Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc mỗi Tòa án nhân dân ở mỗi cấp, mỗi Tỉnh có cách hiểu khác nhau về giám định tư pháp và kết luận giám định tư pháp của các cơ quan, tổ chức giám định tư pháp. Quan điểm của tác giả trong nội dung bài viết này là đồng ý với quan điểm thứ ba. Vì kết luận giám định tư pháp là một trong những nguồn chứng cứ rất quan trọng làm căn cứ cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá và quyết định khi giải quyết vụ án, đảm bảo giải quyết vụ án khách quan, tránh oan sai và không bỏ lọt tội phạm. Đặt trường hợp như vụ án nêu trên nếu kết quả do Hội đồng giám định lần hai thực hiện mà tỷ lệ thương tật của người bị hại 09%, tại giai đoạn xét xử sơ thẩm “Người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, điểm a khoản 1 Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án”. Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TAND tối cao. Thực tế hiện nay vấn đề ban hành các Quyết định trưng cầu giám định thì các cơ quan tiến hành tố tụng ban hành Quyết định có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nội dung, yêu cầu cần giám định và việc ấn định thời hạn thực hiện giám định của cơ quan giám định, cũng như việc thành lập Hội đồng giám định lần thứ hai. Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật giám định tư pháp quy định “Bộ trường, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập Hội đồng để thực hiện giám định lại lần thứ hai,...” vẫn còn vướng mắc, BLTTHS, Luật giám định tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định cụ thể về thời gian để Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định thành lập Hội đồng để thực hiện việc giám định, trong khi đó thời hạn giám định theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 208 BLTTHS là không quá 09 ngày đối với trường hợp giám định “Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe” được quy định tại khoản 4 Điều 206 BLTTHS. Mặc khác, việc Tòa án yêu cầu thành lập Hội đồng giám định để giám định lần thứ hai, theo quy định tại khoản Điều 36 Luật giám định tư pháp thì “Kinh phí thanh toán chi phí giám định tư pháp mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chi trả được bảo đảm từ ngân sách nhà nước theo dự toán hằng năm của cơ quan đó để thực hiện nhiệm vụ giám định tư pháp.”, sẽ gây khó khăn cho Tòa án khi yêu cầu Hội đồng giám định lần thứ hai. Bên cạnh đó, Luật chưa quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân, cơ quan tổ chức giám định khi thực hiện chậm trễ việc giám định để vụ án phải kéo dài; hiện nay có nhiều vụ án phải tạm đình chỉ chờ kết luận giám định để khởi tố, truy tố và xét xử. Do đó, cần quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực hiện việc giám định; từ chối, né tránh việc giám định, thời gian giám định và kết luận giám định; trong trường hợp có kết quả trong kết luận giám định là khác nhau trong cùng một vụ việc, kết luận giám định không đúng sự thật hoặc không khách quan, có sai lệch do lỗi chủ quan trong kết luận giám định… Qua vụ án trên, theo tôi thì Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật giám định cũng cần sửa đổi bổ sung theo hướng “Trong trường hợp việc giám định được thực hiện nhiều lần do các tổ chức, cá nhân giám định thì kết luận giám định tư pháp sau cùng là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sử dụng làm cơ sở khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự trong trường hợp không có khiếu nại hoặc không yêu cầu giám định lần tiếp theo”. Như vậy, đảm bảo có lợi cho người phạm tội khi giải quyết vụ án, và tổ chức, cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ giám định tư pháp có thể có sai sót, không đúng. Bởi vì, thực tế hiện nay rất nhiều vụ án kết quả giám định lần đầu và lần sau là có khác nhau, nhưng bị can, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng trong vụ án đều đồng ý với kết luận giám định lần sau và họ không khiếu nại, thắc mắc gì thì đương nhiên có hiệu lực pháp luật; Chúng ta không cần thiết phải thực hiện việc giám định nhiều lần, gây lãng phí, tốn kém kinh phí. Với mong muốn để thực tiễn về giám định tư pháp, kết luận giám định tư pháp đảm bảo tính chính xác, khách quan để các cơ quan tiến hành tố và người tiến hành tố tụng làm căn cứ để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, rất mong các cơ quan tư pháp ở Trung ương sớm có hướng dẫn thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
0% found this document useful 0 votes2 views10 pagesDescriptionno descriptionCopyright© © All Rights ReservedShare this documentDid you find this document useful?0% found this document useful 0 votes2 views10 pagesBản kết luận giám định pháp y về thương tích cần phải được làm rõJump to Page You are on page 1of 10 You're Reading a Free Preview Pages 5 to 9 are not shown in this preview. Reward Your CuriosityEverything you want to Anywhere. Any Commitment. Cancel anytime.
giám định pháp y thương tích